(Tạp chí Diplomatie 36 – tháng 1 và 2/2008)
------------------------------
Tướng Daniel Schaeffer (Pháp), nguyên Tùy viên QP Pháp tại TQ, VN và Thái Lan,
hiện là Tư vấn cao cấp của chuyên mục “Tiêu điểm quốc tế” (chuyên về TQ
và ĐNA) của Diễn đàn Địa chính trị và Địa chiến lược, sau chuyến đi
nghiên cứu gần đây sang VN và TQ, đã có bài viết “Biển Đông: những điều
hoang đường và sự thật của đường lưỡi bò” mạnh mẽ phê phán những đòi hỏi
chủ quyền của chính quyền TQ đối với Biển Đông.
Nội dung tóm tắt phần liên quan đến đường lưỡi bò:
1. Vén bức rèm che đường lưỡi bò hoang đường
Vấn đề đặt ra đối với TQ trong bối cảnh hiện nay là phải biết cách làm
cho những đòi hỏi ẩn chứa phía sau đường lưỡi bò phù hợp với việc nước
này tham gia Công ước về luật biển và với những đường ranh giới của các
khu độc quyền và các thềm lục địa.
Các cuộc hội kiến của tác giả tại VN và tại TQ cho thấy chính quyền TQ
chưa bao giờ đề cập một cách chính thức đến đường lưỡi bò như một ranh
giới bất khả xâm phạm đối với chủ quyền của TQ tại Biển Đông. Đây là một
trong những nhân tố cơ bản đầu tiên cần nhấn mạnh. Đúng là việc duy trì
biểu tượng của đường này trên các bản đồ do Bắc Kinh xuất bản tiếp tục
gây ra tình trạng mập mờ về thực chất của những yêu sách của TQ, một
tình trạng kéo dài xuất phát từ thực tế là hầu hết người dân TQ đều cho
rằng đây đơn giản là sự khẳng định đối với “việc đã rồi” và vì thế không
việc gì phải bàn đi cãi lại.
Đường lưỡi bò xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng năm 1947, trong một tập
bản đồ tư nhân (chứ không phải do nhà nước xuất bản) dưới dạng một đường
nét liền được vẽ bằng tay. Cần phải có những nghiên cứu cụ thể hơn để
xác định được nguồn gốc chính xác của đường này. Trong thực tế, không
tìm thấy bất kỳ một toạ độ nào của những điểm khác để có thể xác định vị
trí chính xác của đường lưỡi bò.
Sau khi xuất hiện, đường lưỡi bò tiếp tục thay đổi thành một đường gián
đoạn 11 nét, rồi 9 nét bắt đầu từ những năm 1950, tức sau khi nước CHND
Trung Hoa ra đời. Ba giai đoạn như vậy hợp thành một nhân tố quan trọng
để làm cơ sở xem xét các cuộc tranh luận về sau. Những tấm bản đồ về
Biển Đông và về đường lưỡi bò mà chúng ta có thể tìm thấy đều được phát
hành sau năm 1950. Trên những bản đồ này có ghi những chữ cái TQ được
đơn giản hoá (chứ không có các chữ cái TQ truyền thống mà những người
dân tộc chủ nghĩa vẫn còn sử dụng) hoặc những chữ cái La tinh được viết
theo cách phát âm (dạng viết được nhà nước Trung Hoa nhân dân chấp nhận,
khác với những hệ thống chuyển biên mà Trung Hoa dân quốc đã sử dụng
trước đó). Trong những điều kiện như vậy, có thể hiểu rằng một đường
ranh giới như vậy không phải là sự thể hiện chính thức ý trí áp đặt chủ
quyền của TQ đối với toàn bộ Biển Đông. Đúng hơn đó là đường xác định
phạm vi lãnh hải mà toàn bộ phía trong của nó là đối tượng của các cuộc
thảo luận mà TQ muốn tiến hành để xác định chủ quyền trước hết là của
TQ, sau đó mới là của các quốc gia khác, đối với những vùng đất nổi và
đôi khi cả những vùng đất chìm như trường hợp của bãi Macclesfield. Đó
như thể là giới hạn mà TQ đặt ra đối với “khu vực tranh chấp”.
Nếu phân tích kỹ thì có thể thấy được nhiều chi tiết. Thứ nhất là những
đường cơ sở mà TQ xác định xung quanh quần đảo Hoàng Sa (HS). Phải nói
rằng TQ diễn giải một cách quá lạm dụng Phần IV của Công ước về luật
biển khi gán cho HS quy chế “Quốc gia quần đảo”. Thực tế, HS không thể
có quy chế này vì không thoả mãn các tiêu chuẩn được quy định trong Điều
46 của Công ước về luật biển, theo đó để có quy chế “Nhà nước quần đảo”
thì lãnh thổ đó phải độc lập, chỉ bao gồm các hòn đảo và hoàn toàn
không có mối liên hệ với lục địa. Kể cả khi HS thoả mãn 2 tiêu chuẩn
cuối cùng thì nó cũng không thoả mãn tiêu chuẩn đầu tiên, tiêu chuẩn về
sự độc lập, vì đang là đối tượng tranh chấp chủ quyền giữa VN và TQ. Về
logic tổng thể, cần áp dụng quy chế của các đảo đối với HS, tuỳ thuộc
vào việc tại đây con người có thể sinh sống hay không như quy định trong
Phần VIII của Công ước về luật biển.
Ngoài ra, chúng ta thấy rằng các đường cơ sở được áp dụng đối với HS
không trùng với đường lưỡi bò và ngược lại. Nếu TQ không muốn mâu thuẫn
với chính mình, họ không nên đặt ra những đường cơ sở xung quanh HS. Khi
câu hỏi về mâu thuẫn này được đặt ra, người ta chỉ có được những câu
trả lời mập mờ thay cho những lời giải thích có tính thuyết phục.
Chi tiết thứ hai đó là việc TQ đưa ra định nghĩa về lãnh hải của họ
trong Luật ngày 25/2/1992. Trong luật này, Biển Đông không được nêu như
là “biển lãnh thổ”. Chỉ có các quần đảo - một trong những cấu thành của
Biển Đông - được nêu một cách rứt khoát là lãnh thổ quốc gia của TQ. Như
vậy, các khu đặc quyền kinh tế của TQ cũng cần được xác định trên cơ sở
của luật này.
Chi tiết thứ ba nảy sinh từ những lời phát biểu kỳ quặc của vị đại diện
của một trong những viện nghiên cứu mà tác giả đã gặp khi vị này cho
rằng đường lưỡi bò không phải do thể chế cộng sản tạo ra mà là sự kế
thừa của thể chế dân tộc chủ nghĩa trước đây. Ta có thể hiểu: việc đường
lưỡi bò tồn tại như bây giờ không phải là lỗi của chính quyền Bắc Kinh.
Nói một cách nghiêm túc hơn: dù diễn đạt khó hiểu đi chăng nữa thì vị
quan chức này cũng cho thấy rằng điều mà TQ đòi hỏi trước tiên là các
bên tranh chấp phải công nhận rằng hiện đang có tranh chấp tổng thể và
quan trọng hơn là họ công nhận rằng hiện đang tồn tại những khu vực
tranh chấp và thực sự đang tồn tại sự tranh chấp đối với những vùng nêu
trên. Điều đó có nghĩa là:
- TQ muốn VN công nhận rằng không có tranh chấp đối với HS - điều mà Hà
Nội không chịu. Điều mà TQ muốn đạt được ở đây là hai nước chấp nhận
thực trạng được áp đặt bằng quân sự giữa giữa 2 nuớc trong những năm
1947-1974 và rằng vấn đề HS từ nay trở đi vĩnh viễn là vấn đề đã quyết
với phần thắng thuộc về TQ. Đối với TQ, không còn gì để đàm phán về nội
dung này. Họ đã nói rõ điều này. Nếu VN có những tư liệu đích thực có
giá trị pháp lý để chứng minh rằng các vua Annam thực sự đã thực thi chủ
quyền của họ trên những hòn đảo này vào thời kỳ tiền thực dân (chủ
quyền này sau đó được thực dân Pháp đảm nhiệm) thì lý lẽ của TQ về chủ
quyền đối với những hòn đảo này sẽ yếu hơn nhiều so với những lý lẽ của
VN, kể cả khi TQ cho rằng chủ quyền của họ được thực thi đối với Biển
Đông từ thời triều Song (960-1279). Ít nhất đó cũng là điều mà trẻ em TQ
học trong các cuốn sách lịch sử của họ. Vấn đề cung cấp thêm những bằng
chứng đáng tin cậy (chứ không phải cứ to mồm kêu loa “đã từ lâu các ngư
dân TQ thường xuyên đến các vùng biển này”) là điểm quan trọng hiện nay
và đây đúng ra phải là nhân tố cho phép xác định chủ quyền thực tế đối
với HS.
- TQ lẩn tránh việc thảo luận thực tại của vấn đề chủ quyền đối với bãi
Macclesfield, khu vực đang là “vấn đề đặc biệt” như đánh giá của một
trong các chuyên gia của TQ về luật biển. Thực tế, dù không đáp ứng bất
kỳ tiêu chuẩn nào của Công ước về luật biển về mặt thực tại lãnh thổ
trong trường hợp như thế này vì Công ước chỉ chế định những bãi nổi hay
những mỏm ngầm nhìn thấy được (trong điều 6 của Công ước có định nghĩa
các bãi đá ngầm mặc dù định nghĩa này còn chưa rõ ràng), việc khẳng định
chủ quyền đối với khu vực này là điều khó đối với mọi quốc gia.
- TQ có thể sẽ tỏ ra sẵn sàng thảo luận về Trường Sa để phục vụ chiến
lược lừa dối để thế giới tưởng rằng TQ cũng có khả năng nhân nhượng hoặc
vì TQ không có đủ các nhân tố khẳng định chủ quyền chắc chắn đối với
quần đảo này. Các diễn giải như vậy càng được củng cố hơn khi Viện
Nghiên cứu về Biển Đông đóng tại Haikou, rất có uy tín đối với chính
quyền trung ương TQ, có một bộ phận chuyên nghiên cứu về TS, trong khi
về các quần đảo khác thì không có bộ phận nghiên cứu chuyên trách.
2. Điều hoang đường khó dẹp bỏ
Tình hình nêu trên cho thấy rằng vẫn chưa thể loại bỏ đường lưỡi bò khỏi
các bản đồ của TQ ngày nay. Thực ra, các chuyên gia về luật biển của TQ
vẫn chưa thành công trong việc thuyết phục người dân TQ, đặc biệt là dư
luận xã hội, về sự cần thiết phải làm cho những đòi hỏi về chủ quyền
của TQ phù hợp với các điều khoản của Luật biển để những đòi hỏi này trở
lên đáng tin cậy. Đại diện cho khuynh hướng “tôn trọng pháp lý” này
(hãy tạm gọi như thế) là giáo sư Zhao Lihai, người được bổ nhiệm thẩm
phán tại Tòa án quốc tế về luật biển tại Hambourg tháng 8/1996, nhưng đã
chết vào tháng 10/2000 khi chưa kết thúc nhiệm kỳ. Trường phái này đã
được một số quan chức TQ, cả quân sự và dân sự, ủng hộ, nhưng tất cả các
cơ quan nghiên cứu thì không đồng tình. Tuy nhiên, cần thấy rằng trước
đó giáo sư Zhao trong một thời gian dài cũng đã cố sức bảo vệ cho giả
thiết rằng khu vực được giới hạn bởi đường lưỡi bò hoàn toàn thuộc về
TQ.
Ngày nay, khuynh hướng “tôn trọng pháp lý” còn đang phải đối mặt với hai
trường phái truyền thống. Trường phái thứ nhất khẳng định rằng Biển
Đông là biển lãnh thổ TQ, với lý lẽ là đường lưỡi bò đã có trước Công
ước về luật biển, là di sản của lịch sử. Trường phái thứ hai cho rằng
thể chế của Biển Đông là thể chế của một biển lịch sử như nêu trong các
sách giáo khoa lịch sử, mặc dù điều này không được kiểm chứng.
3. Kết luận
Đường lưỡi bò có thể còn tồn tại một thời gian dài nữa mặc dù nó đang
trở lên mờ nhạt trong tâm trí của một số người TQ muốn đất nước mình là
một thành viên tin cậy của Công ước về luật biển. Những đòi hỏi chủ
quyền của TQ đối với Biển Đông thật khó có thể biện minh. Việc từ bỏ
hoàn toàn đường lưỡi bò sẽ khắc phục hoàn toàn được tình trạng mập mờ
cản trở thực tiễn, làm cho các cuộc đàm phán giữa các nước trong khu vực
trở lên khách quan hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho việc cùng khai
thác tài nguyên tại một số khu vực ít ỏi không tranh chấp. Cùng một số
diễn biến gần đây trong khu vực, điều này có thể sẽ là một triển vọng
thực tế đáng khích lệ. Việc TQ và Nhật Bản ký kết thỏa thuận cùng khai
thác mỏ khí Shirabaka (theo cách gọi của Nhật Bản) cho phép hy vọng về
một sự tiến triển trong tư duy của TQ liên quan đến những đòi hỏi chủ
quyền của Bắc Kinh đối với Biển Đông, thậm chí có thể một ngày nào đó TQ
sẽ quyết định bỏ hẳn đường lưỡi bò trong các bản đồ của họ./.
Biển Đông: những điều hoang đường và sự thật của đường lưỡi bò
Biển Đông: những điều hoang đường và sự thật của đường lưỡi bò
0 nhận xét:
Post a Comment